ĐẾN GIÀ MỚI CHỢT TỈNH - Từ theo cộng đến chống cộng (78)
Hồi ký Tống Văn Công
Kìa! Cái tất yếu đang lừng lững đi tới!
1- Vì sao Quốc Hội không thể nhận thức được “cái tất yếu”?
Sau khi Hiến Pháp được Quốc Hội thông qua với số phiếu áp đảo, dư luận cả nước sôi hẳn lên. Các giáo sư, tiến sĩ Mác-Lê phân tích “Hiến pháp thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng được Quốc Hội thông qua là thắng lợi của ý Đảng lòng dân”. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói “Hiến Pháp mới sẽ nói lên tiếng nói của 90 triệu đồng bào”. Báo Nhân Dân đăng bình luận “Hiến Pháp (sửa đổi) – một bước tiến lịch sử“. Nhưng có sự phản ứng ngược lại. Nhà văn Võ Thị Hảo kêu lên “ngày thông qua Hiến Pháp là ngày tang khốc của dân tộc”. Đảng viên Lê Hiếu Đằng, người từng bị chế độ Sài Gòn kết án tử hình tuyên bố từ bỏ Đảng. Hôm sau, đảng viên tiến sĩ Phạm Chí Dũng một cây bút bình luận thời sự chính trị xuất sắc, gửi tâm thư xin ra Đảng, bởi “sự lãnh đạo toàn diện của Đảng chỉ mang hơi thở và bóng hình của các nhóm lợi ích”. Tiếp theo, đảng viên, bác sĩ Nguyễn Đắc Diên ra Đảng nhưng hứa hẹn “khi nào Đảng thực sự hoàn lương, nắm vững ngọn cờ dân tộc, vứt bỏ ngọn cờ xã hội chủ nghĩa thì tôi lại phấn đấu xin vào”. Đảng viên Nguyễn Minh Đào gần 80 tuổi đời, gần 60 mươi tuổi Đảng cảnh báo “đất nước dưới chân Đảng đang rung chuyển, tôi mong Đảng hãy kịp thời hành động, đừng để quá muộn!“
Lời nói đầu Hiến Pháp mới viết rằng, Hiến Pháp này “kế thừa Hiến Pháp 1946”. Nếu đúng như vậy thì cũng đã đáp ứng được phần lớn đòi hỏi của số đông đảng viên và nhân dân rồi, vậy tại sao vấp phải phản ứng dữ dội như vậy! Không đúng! Hiến pháp 1946 và Hiến Pháp mới khác nhau về ý thức hệ, cho nên không có chuyện kế thừa! Hiến pháp 1946 đề cao vai trò của nhân dân, đảm bảo các quyền cơ bản của nhân dân, quy định nhân dân tham gia quyết định các sự kiện trọng đại của đất nước bằng quyền phúc quyết sau khi đã được Quốc Hội thông qua. Hiến pháp 1946 quy định nhà nước pháp quyền, với tam quyền phân lập, điều mà Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp năm 1879 ở Điều 16 viết: “Ở một xã hội mà quyền con người không được đảm bảo, nguyên tắc tam quyền phân lập không được tôn trọng thì Hiến Pháp có được ban hành hay không cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Khác với Hiến pháp 1946, Hiến pháp mới quy định cho một tổ chức chính trị được quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội mà không cần phải qua bầu cử của nhân dân, quy định lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với tổ chức chính trị ấy.
Giống như bào chữa cho việc bỏ phiếu thông qua Hiến pháp của Quốc Hội, tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc Hội cho rằng: “Hai năm qua, những tư tưởng về chủ nghĩa lập hiến, về chủ quyền nhân dân, về quyền con người, về cơ chế kiểm soát quyền lực… đã tràn vào nước ta, thắp sáng khối óc và con tim của hàng triệu người Việt. Tuy nhiên, nhận thức về sự tất yếu như vậy nhiều khi khó đạt một cách dễ dàng. Một độ trễ nhất định của nhận thức so với thực tiễn đã đầy ‘đa nguyên’ của đời sống kinh tế là rất khó tránh khỏi”. Lời bào chữa của ông không giúp được “hạ nhiệt” dư luận mà trái lại đã làm người đọc thêm bức xúc: “Tại sao những tư tưởng khai sáng tràn vào thắp sáng được khối óc, con tim của hàng triệu người Việt mà nó lại không thể thắp sáng nỗi đầu óc, con tim của gần 500 đại biểu Quốc Hội, trong đó có hơn 90% là đảng viên, và có mặt tất cả các ủy viên Bộ Chính trị của Đảng tiên phong lãnh đạo, những đại biểu ưu tú mang trí tuệ của dân tộc và thời đại?” Điều ấy gây khó cho những ai muốn bào chữa họ là những đại biểu ưu tú của nhân dân!
Mọi người đều biết “tất yếu và ngẫu nhiên” là một cặp phạm trù triết học phản ánh mối liên hệ khách quan giữa các hiện tượng trong quá trình biến đổi, phát triển của thế giới. Tất yếu là cái nhất thiết phải xảy ra trong những điều kiện nhất định, còn ngẫu nhiên là cái có thể xảy ra hay không thể xảy ra, có thể xảy ra thế này hay thế khác. Tất yếu gắn liền với những nguyên nhân bên trong, bản chất của hiện tượng, là xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng. Cái tất yếu mở đường đi cho nó thông qua vô số những cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên thì trở thành biểu hiện, bổ sung cho cái tất yếu. Cái tất yếu được chỉ ra trong các quy luật động học có độ xác định rất cao (Từ điển Bách khoa).
Nhiều học giả trên thế giới và trong nước đều khẳng định rằng, tự do, dân chủ, nhân quyền là xu thế tất yếu của thời đại mà mọi quốc gia nhanh hay chậm đều phải đi đến. Vậy nếu đi ngược lại cái tất yếu thì điều gì sẽ xảy ra? Chắc chắn phía trước tiềm ẩn nhiều tai họa!
Đại văn hào Stefan Zweig cho rằng “luôn có những con chim báo bão, sứ giả của trí tuệ, đi trước những tai họa lớn bằng sự bay của mình”. Tiếc thay tiếng chim báo bão ở nước ta không có người lắng nghe!
2- “Đến hết thế kỷ này chưa biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa!”
Trên đây là câu nói của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi góp ý sửa đổi Hiến pháp. Ông vốn là tiến sĩ về lý luận xã hội chủ nghĩa Mác-Lê, là người đứng đầu Đảng cộng sản nhận nhiệm vụ “đưa đất nước từng bước quá độ lên CNXH với nhận thức và tư duy đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam” (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011). Vậy câu nói của ông nên hiểu là với “nhận thức và tư duy” thế nào?
Theo lý luận Mác-Lê thì ở thời kỳ quá độ, chuyên chính vô sản phải thi hành các chính sách nhằm tạo ra “điều kiện tiên quyết của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng nền công nghiệp xã hội chủ nghĩa hùng mạnh và tiến hành hợp tác hóa kinh tế nông dân. Thời kỳ quá độ kết thúc sau khi đã tiêu diệt thành phần tư bản chủ nghĩa ở thành thị và nông thôn, chủ nghĩa xã hội thắng lợi trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân” (từ điển kinh tế, nxb CTQG Liên Xô năm 1958, nxb Sự Thật in lại 1962). Về thời kỳ quá độ, Đại hội 11 kết luận: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Nội dung này trung thành với nguyên lý nói trên và không gây cảm giác “chuyện ấy còn lâu”.
Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới bác bỏ khả năng thực hiện “quá độ xã hội chủ nghĩa” nói trên. Nhưng có lẽ sự bác bỏ có sức thuyết phục mạnh nhất là việc các nước SNG trong Liên Xô cũ và các nước Đông Âu vứt bỏ hoàn toàn lý thuyết nói trên để thực hiện nền dân chủ pháp quyền, kinh tế thị trường hiện đại và xã hội dân sự.
Nguyên nhân khiến cho chủ nghĩa xã hội không thể vượt qua được chiếc cầu “quá độ” là vì nó mang nhiều khuyết tật không thể khắc phục, trong đó có hai vấn đề lớn nhất:
Một là, chế độ độc tài toàn trị từng bước làm thoái hóa Đảng cộng sản cách mạng, vốn đặt mục đích vì lợi ích người lao động, cuối cùng lại trở thành Đảng quan liêu, đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, đứng trên nhân dân. Tình trạng này không thể khắc phục được, bởi như nhận định của lý thuyết gia chính trị Lord Acton “Quyền lực dẫn tới tha hóa. Quyệt lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối”. Các Đảng cộng sản đều kêu gọi đảng viên gần dân, dựa vào dân, nhưng mọi quyền lợi của họ đều do Đảng quyết định, cất nhắc, phân công cho nên không có đảng viên nào thấy cần phải dựa vào dân. Hơn nữa, những điều người dân đòi hỏi mà trái với Nghị quyết của Đảng thì họ phải nhân danh Đảng bác bỏ, thậm chí trù dập, để bảo vệ quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là “Đảng cử dân bầu”.
Hai là, chế độ xã hội chủ nghĩa triệt tiêu quyền sở hữu tài sản cá nhân, tức là quyền tự do về kinh tế, khiến cho con người mất động lực lao động sản xuất và sáng tạo. “Cha chung không ai khóc”, “của chung là của chùa” khiến cho “làm thì nhác, chia chác thì siêng”. Lê Nin cho rằng quyết định cuộc đấu tranh “ai thắng ai” là ở năng suất lao động bên nào cao hơn. Nhưng kết cục, năng suất lao động ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa đều thấp, hàng hóa làm ra vừa ít, vừa kém chất lượng. Đời sống vật chất không được cải thiện, trong khi đời sống tinh thần không có tự do, nhân dân không thể mãi cúi đầu cam chịu.
Đảng Cộng sản Việt Nam may mắn hơn các đảng cộng sản ở một số nước là: Nhân dân ta nhạy bén, dám phản ứng khi nhìn thấy khuyết tật lộ ra sau cải tạo xã hội chủ nghĩa; Đảng có nhiều nhà lãnh đạo biết lắng nghe nhân dân, âm thầm cùng họ “xé rào” (tức là vượt qua các nguyên lý xã hội chủ nghĩa), như Võ Văn Kiệt, Trần Phương, Đoàn Duy Thành, Nguyễn văn Chính, Nguyễn văn Hơn, Bùi văn Giao… Nhờ đó, Đảng có thể lãnh đạo cuộc đổi mới kinh tế của Đại hội 6 năm 1986. Với cách nói né tránh là “xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp”, thực ra đó là xóa bỏ cơ chế xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác-Lê mà nội dung đã trích dẫn ở trên. Chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư bản, nhưng né tránh tên cúng cơm để gọi là doanh nhân. Tuy nhiên về mặt chính trị thì hầu như 28 năm qua không có sự tự giác đổi mới đáng kể, chỉ vì sợ mất vị trí độc quyền cai trị. Ngay trong khóa 6, ông Trần Xuân Bách, ủy viên Bộ Chính trị chỉ vì đề nghị đổi mới chính trị song song với đổi mới kinh tế đã lập tức bị sa thải!
Đại hội 7, Đại hội 8 vẫn nhắc lại đổi mới kinh tế là “điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới chính trị”, nhưng lại “bác bỏ lợi dụng dân chủ, nhân quyền nhằm quấy rối về chính trị”. Đại hội 9 rút ra 4 bài học đổi mới không nhắc gì đến đổi mới chính trị. Điều lạ lùng là Đại hội này lại khẳng định “con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta bỏ qua chủ nghĩa tư bản”. Thật là cố bám lấy mớ lý luận giáo điều một cách hết sức nông nổi, dù rằng thừa nhận “tình trạng tham nhũng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng”, bởi vì không nhận thức được nguyên nhân suy thoái là do không đổi mới chính trị. Đại hội 10 quyết định: “Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, và phát triển văn hóa tinh thần”; đồng thời cảnh báo tình trạng suy thoái đa dạng và nghiêm trọng hơn khóa trước: “Suy thoái chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở Đảng thiếu sức chiến đấu”. Trước thềm Đại hội 11, nhiều đảng viên, trong đó có nguyên ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương, kiến nghị phải đổi mới chính trị. Ý kiến các đồng chí này không được nghe, họ còn bị quy chụp là suy thoái chính trị, “tự diễn biến”! Đại hội 11 nhắc lại “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp”. Nhưng không nêu ra được những nội dung tự do, dân chủ của thời đại vào lộ trình đổi mới chính trị. Các văn kiện vẫn tiếp tục khái niệm “mở rộng dân chủ” mà mấy mươi năm trước, Trần Xuân Bách đã bác bỏ: “Dân chủ không phải do lòng tốt của những người lãnh đạo muốn ban ơn cho dân, thấy thuận lợi thì mở rộng thấy bất tiện thì thu hẹp. Dân chủ không có chỗ cho những ai muốn lợi dụng”. Thực hiện nghị quyết Đại hội 11, Hội nghị TƯ 4 ra Nghị quyết xây dựng Đảng, tìm biện pháp khắc phục tình trạng mà một nhà lãnh đạo Đảng đã chẩn đoán “tình trạng suy thoái trong Đảng đã nặng lắm rồi, như căn bệnh ung thư đã di căn”. Đáng buồn là biện pháp chủ yếu để trị “ung thư đã di căn” được HN TƯ 4 đề ra chỉ là trung thành với quan điểm của nguyên Tổng bí thư Lê Duẩn “chúng ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta không cần pháp luật, chúng ta chỉ cần phê bình và tự phê bình là đủ”. Nhà văn Vũ Tú Nam xót xa bình luận “Đảng như con cá ngúc ngoắc trong ao cạn”!
Đến đây, đã có thể hiểu được vì sao Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt mục tiêu xã hội chủ nghĩa xa vời đến thế. Ông đã thấy “Tham nhũng tổ chức thành đường dây chứ không phải từng người ăn mảnh, họ đua nhau tham nhũng”. Đảng viên có chức, có quyền, “một bộ phận không nhỏ” là những “tư bản đỏ” nắm quyền vận hành nền kinh tế theo thứ “chủ nghĩa tư bản hoang dã”. Ông thấy không thể nào “cải tạo xã hội chủ nghĩa” đối với họ. Vậy thì, làm sao biết hết thế kỷ này đã có chủ nghĩa xã hội hay chưa! Ông thấy bất lực trước thực tế, nhưng tiếc thay tại sao vẫn cố buộc cả dân tộc phải đi “đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!”
Người viết xin được nhắc lại lời của Alexander Ivanovich Herzen, một nhà tư tưởng Nga lỗi lạc: “mục đích mà xa bất tận thì không phải là mục đích nữa - nếu anh muốn, chỉ là mánh khóe thôi; mục đích thì phải gần hơn, ít nhất cũng như tiền lương hay khoái cảm trong lao động. Cuộc sống không thỏa mãn với những ý tưởng trừu tượng, không chịu vội vã, cứ chậm chạp. Cho phép tôi được hỏi anh, do đâu mà anh cảm thấy thế giới bao quanh chúng ta lại vững chắc và trường tồn đến thế?”
3-Từ bản kiến nghị 1 người ký, đến “kiến nghị 72”
Đầu năm 1991, trước thềm Đại hội 7, tình hình kinh tế đã có chuyển biến khá, nhưng đất nước chưa thoát khỏi khủng hoảng. Một số lão thành cách mạng họp nhau nhận diện cuộc khủng hoảng và bàn bạc tìm lối ra. Các cụ nhất trí giao cho ông Nguyễn Kiến Giang, nguyên Phó giám đốc Nhà xuất bản Sự thật chấp bút. Đến tháng 3-1991 bản kiến nghị viết xong với tựa đề là “Khủng hoảng và lối ra”. Các cụ họp lại đọc, tất cả đều tán thành, nhưng chỉ có cụ Lê Giản, nguyên giám đốc Nha Công an đầu tiên đồng ý ký tên, số còn lại mỗi người nêu một lý do để từ chối ký tên! Bởi tháng 3 năm 1990 ông Trần Xuân Bách đã bị kỷ luật vì những luận điểm na ná bản kiến nghị này. Thế mới biết ở thời ấy nỗi sợ hãi thật là ghê gớm. Trước tình hình đó, Nguyễn Kiến Giang đành xin phép các cụ một mình ông ký tên và gửi cho Bộ Chính trị!
Bản Kiến nghị “Khủng hoảng và lối ra” dài hơn 17 trang giấy A4, hơn 10.000 từ. Xin lược ghi những điểm quan trọng:
Đặt vấn đề
Tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng kéo dài là hiện thực cơ bản bao trùm toàn bộ đời sống xã hội nước ta không ai không thừa nhận. Văn kiện Đảng gọi là khủng hoảng kinh tế xã hội, nhưng thực chất của nó là thế nào? Nguyên nhân chủ yếu? Có khả năng thoát ra khỏi khủng hoảng hay không? Thoát ra bằng lối nào?
Khủng hoảng
Đây là khủng hoảng toàn diện, khủng hoảng tổng thể xã hội: kinh tế và xã hội, tinh thần và đạo đức, tư tưởng và chính trị. Khủng hoảng ở mỗi lĩnh vực vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của khủng hoảng ở các lĩnh vực khác.
Các quan hệ sở hữu không phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, do đó vẫn tiếp tục kiềm hãm và phá hoại những năng lực sản xuất xã hội. Rõ nhất là ở khu vực nhà nước, đang biến thành ổ chứa những bệnh tật hiểm nghèo: tham nhũng, buôn lậu và lãng phí vô tội vạ. Những phần tử thoái hóa biến chất trong bộ máy nhà nước móc ngoặc với những phần tử lưu manh kết thành những mafia có thế lực khá lớn.
Sự phân hóa xã hội không lành mạnh đang diễn ra. Nghèo khổ, lạc hậu cộng với bất công xã hội làm cho tình hình xã hội rất ngột ngạt. Trong hoàn cảnh đó, khủng hoảng tinh thần là không thể tránh khỏi. Chưa bao giờ con người sống chông chênh và lo lắng như bây giờ. Tội ác xảy ra ngày càng tăng, mang những hình thức nghiêm trọng hiếm thấy. Các giá trị tinh thần bị lật ngược: Người ngay sợ kẻ gian, người lương thiện có năng lực sống khổ cực hơn kẻ cơ hội, xu nịnh trở thành mốt phổ biến.
Khủng hoảng có khía cạnh quốc tế. Xu thế dân chủ hóa phát triển rộng rãi và mạnh mẽ. Trong khi đó nước ta vẫn sống cô lập với thế giới bên ngoài. Tính chất lạc hậu và lạc điệu của nước ta càng nổi bật lên, tạo thành một sức ép tinh thần lớn đối với nhân dân, nhất là lớp trẻ và giới trí thức.
Khủng hoảng ở nước ta hiện nay tập trung lớn nhất ở khủng hoảng chính trị. Đảng duy trì địa vị độc tôn quá lâu, biến sự lãnh đạo của mình là một tất yếu khách quan trong đấu tranh giải phóng dân tộc thành chế độ đảng trị hiện nay là một áp đặt chủ quan. Đảng đã tự đánh mất uy tín vốn có. Trong điều kiện đó không thể nói tới một nhà nước pháp quyền. Xã hội sống gần như không có pháp luật. Chỉ cần nhắc tới một sự thật là đã phát hiện 10.000 vụ tham nhũng, nhưng chỉ đưa ra xét xử vài chục vụ mà cũng không xét xử đến nơi đến chốn.
Lối ra
Về mặt quốc tế: Quốc tế hóa kinh tế, tiến bộ khoa học công nghệ, dân chủ hóa đời sống xã hội của nhân loại đang tạo cho chúng ta những điều kiện hòa chung với trào lưu văn minh hiện đại.
Trong nước, những lực lượng ủng hộ đổi mới có ở khắp nơi, chỉ cần có sự lãnh đạo sáng suốt. Có 2 điểm cần làm rõ:
1- Bài học Đông Âu không phải là kiềm giữ, bị động đối phó với dân chủ hóa và đổi mới chính trị mà phải là chủ động thực hiện dân chủ hóa và đổi mới chính trị từng bước vững chắc triệt để.
2- Dân chủ hóa không đe dọa sẽ tước mất vai trò lãnh đạo của Đảng. Chỉ có Đảng nào không gắn bó với nhân dân, biến sự lãnh đạo của mình thành chế độ đảng trị và cố bám giữ lấy nó thì mới sụp đổ.
Chuẩn bị mảnh đất tốt cho sự phát triển lâu dài của đất nước trên nền tảng văn minh chung của loài người đã được khảo nghiệm là xã hội dân sự (Nguyễn Kiến Giang “Nội dung thuật ngữ Xã hội công dân”), kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền.
Phải tách Đảng ra khỏi chức năng nhà nước, tách nhà nước ra khỏi chức năng quản lý, điều hành kinh tế, mới có thể vận hành có hiệu quả guồng máy kinh tế xã hội.
Thay đổi quan hệ sở hữu: Chuyển sở hữu nhà nước thành sở hữu cổ phần và sở hữu tư nhân những phần còn lại. Đối với nông dân thực hiện quyền có (droit de possession) về ruộng đất lâu dài, kể cả quyền thừa kế và chuyển nhượng.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng xây dựng xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền sát chuẩn mực quốc tế.
Phát huy năng lực trí tuệ của giới trí thức. Tôn trọng tự do tư tưởng, tự do sáng tác, tụ do báo chí. Xóa bỏ độc quyền chân lý là một yêu cầu bức bách về chính trị.
Chuyển quyền lực chính trị từ các cơ quan Đảng sang các cơ quan đại diện quyền lực nhân dân. Tuyên bố xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp quy định vai trò của Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội chỉ được thực hiện bằng phương pháp thuyết phục.
Mặt trận Tổ Quốc đứng ra triệu tập một Đại Hội quốc dân mới theo kinh nghiệm Đại Hội quốc dân ở Tân Trào trước khởi nghĩa Tháng 8 1945 để bàn và quyết định Một chương trình khắc phục khủng hoảng.
Theo tinh thần hòa hợp, hòa giải, đoàn kết dân tộc, Đảng chỉ cần bảo đảm cho mình một nửa số đại biểu, hoặc một đa số tương đối trong Quốc Hội.
Bản kiến nghị với những điều đặt ra hết sức thiện chí đã bị xếp xó. Do đó mà sau 22 năm, tình trạng khủng hoảng toàn diện của đất nước đã tăng lên theo cấp số nhân! Thực tế đất nước và nguyện vọng bức xúc của nhân dân đã hun đúc đưa tới sự ra đời của Bản kiến nghị 72. “Kiến nghị 72” là liều thuốc mạnh chữa một bệnh trạng của Đảng độc quyền lãnh đạo “ung thư đã di căn”, gồm các điểm quan yếu:
– Theo nguyên tắc chủ quyền nhân dân, không định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội thuộc một tổ chức chính trị.
– Quy định quyền con người theo đúng tinh thần Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948 và các Công ước quốc tế.
– Đất đai thuộc nhiều quyền sở hữu: tư nhân, tập thể, cộng đồng, nhà nước.
– Nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập.
– Quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân
– Quân đội chỉ trung thành với Tổ Quốc.
Trí tuệ và tầm vóc lớn lao của kiến nghị lần này không phải ở con số gấp 72 lần, cũng không phải 15.000 lần tương ứng với số người đã hưởng ứng ký tên. Điều quan trọng là nó mang sức mạnh tỉnh thức của nhân dân, nhận ra cái tất yếu nhất thiết phải xảy ra! Một số nhà lý luận “phò chính thống” (theo cách nói của Nguyễn Kiến Giang) cố cãi chày cãi cối rằng, 72 hoặc 15.000 vẫn là thiểu số. Các ông không nhớ rằng, Kim Ngọc, người khai sinh khoán 10 là rất thiểu số! Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1945 với 5.000 đảng viên là rất thiểu số! Vấn đề không phải là ít hay nhiều mà là tiềm năng có thể nhân lên nhanh chóng để chiến thắng, hoặc ngược lại thì, dù là một thực thể khổng lồ nhưng rất dễ bị thoái hóa, lụi tàn. Điều quyết định là ở chỗ thuận theo lòng dân và hợp với xu thế tất yếu của thời đại.
Tiếc thay, bản Hiến pháp thể chế hóa Cương lĩnh vừa được thông qua, không đếm xỉa gì đến góp ý của nhân dân!
4- Xin chớ vội reo mừng, cũng đừng buồn tang khốc!
Vô cùng chia sẻ sự âu lo của nhà văn Võ Thị Hảo khi nghe bà đau đớn kêu lên, ngày thông qua Hiến pháp là ngày “tang khốc” của dân tộc! Xin đừng quá đau buồn, hãy nhìn kìa, sự tất yếu vẫn cứ đang lừng...