Nguyễn Hồng Lam
#nguyenhonglam
Mới đây thôi, có ai đó vừa nói một cách có vẻ nghiêm túc rằng “tiền, vàng trong dân vẫn còn nhiều lắm”. Trong những lúc trà dư tửu hậu hậu, thỉnh thoảng người Việt lại ưa nhòm sang vài quốc gia lân bang mà trầm trồ: bạc vàng châu báu ở đâu mà họ lắm thế. Trong khi đó, mệnh danh xứ sở “rừng vàng biển bạc”, nhưng dường như ở xứ ta, người dân cũng chỉ nhìn thấy bạc vàng trong những giấc mơ.
Thật ra không hẳn thế, cũng đã có một thời…
THỜI VÀNG KHO BẠC ĐỤN
Đơn vị thanh toán phổ biến nhất từ xưa đến nay vẫn là tiền đồng. Dù vậy, vàng và bạc vẫn là thứ “dữ tệ” được vua chúa, vương tôn quí tộc, các đại thương gia hào phú ưa chuộng, tích lũy và cất giữ đem ra ban thưởng hay trao đổi trong các vụ thanh toán lớn.
Thời xưa, mỗi trang viên, phủ đệ hay các trung tâm mậu dịch đều có lò đúc vàng, bạc thành nén riêng. Trọng lượng, chất lượng và hình dạng các thoi vàng, nén bạc được quy định lỏng lẻo, tùy theo từng lò đúc, có dấu hiệu riêng. Bốn nghìn năm lịch sử, Việt Nam vẫn luôn là một xứ sở quen thói tùy tiện, ưa gian dối, khó tin tưởng được ai.
Trong dân gian, để tiện thanh toán, người ta vẫn thường phân định giá trị vàng bạc theo trọng lượng. Phổ biến có hai dạng đúc là hình thỏi và hình viên. Nén vàng, bạc nặng 1 lượng được gọi là đĩnh; loại 10 lượng đến 20 lượng, vàng thì gọi là thoi, bạc thì gọi là nén. Lớn hơn nữa, từ trên 20 lượng đến 100 lượng được gọi là khối (vàng khối, bạc khối).
Mãi đến thời Gia Long, từ ý chí thống nhất giang sơn mãnh liệt của ông vua này, đất nước mới tạm đi dần vào quy cũ, rõ nhất là trong quản lý tiền tệ, bạc vàng. Năm 1803, một năm sau ngày Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, vị quan coi Bắc thành tiền cục là Thượng Thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Khiêm đã có tờ tấu phản ánh rằng: “Bạc nén thời Tây Sơn quá xấu, pha trộn kẽm thiếc quá nhiều, phân lượng lại không đủ. Nay triều ta đúc nén, xin ghi chữ làm tin”.
Vua Gia Long chuẩn tấu, buộc các cơ sở đúc vàng bạc trong cả nước phải đóng dấu hai chữ “Trung Bình” vào thoi vàng, nén bạc trước khi đưa ra lưu hành hay cất kho tích trữ. Cùng một trọng lượng, bạc nén có dấu trên thị trường được tính giá cao hơn bạc nén không dấu.
Năm 1812, Gia Long lại cho đúc đỉnh bạc nặng 1 lượng, có dạng hình thỏi. Ngoài hai chữ “Trung Bình” đóng bên hông, mặt trên đỉnh bạc còn có ghi bốn chữ “Gia Long niên tạo”, mặt dưới đề “trinh ngân nhất lượng”. Đến đời Minh Mạng, hoàng đế lại tiếp tục cho đúc các nén vàng, bạc nặng 10 lượng theo khuôn mẫu, mặt trên tùy theo thời điểm được đóng nổi ba dấu để phân biệt đế hiệu, năm đúc và nơi đúc.
Năm 1858, đại bác Pháp bắt đầu rót vào cửa biển Đà Nẵng. Quốc gia bị đặt trước hiểm họa xâm lăng, khiến triều Nguyễn phải tăng cường “dự trữ quốc gia” để đề phòng biến động. Theo lệnh của vua Tự Đức, vàng bạc trong nước được gom về quốc khố và đúc thành những khối tinh chất có trọng lượng 30, 50 và 100 lượng, mặt trước đúc nổi 4 chữ “Tự Đức thông bảo”, mặt sau ghi “Tinh kim bách (hoặc tam thập, ngũ thập) lượng”, xung quanh đắp nổi hình lưỡng long triều nhật. Tuy nhiên, cho đến nay, lượng vàng, bạc được triều Tự Đức gom về quốc khố là bao nhiêu thì vẫn chưa ai xác định được cụ thể. Ngay từ xa xưa, Việt Nam đã có truyền thống kém minh bạch, ưa biển lận, có lẽ không phải là nơi thích hợp để phát triển ngành kế toán và kiểm toán một cách bài bản.
Giá trị của vàng thoi, bạc nén so với tiền đồng biến thiên tùy thời điểm. Năm 1812 vua Gia Long định giá 1 lạng bạc bằng 2,8 quan tiền, 1 lạng vàng bằng 10 lạng bạc. Các triều đại sau định giá 1 lạng vàng bằng 17 lạng bạc. Năm 1867, triều Tự Đức định giá 1 lạng bạc bằng 10 quan tiền. Năm 1884, đĩnh vàng 1 lượng đúng 10 tuổi được tính 300 quan tiền, cứ non đi 1 tuổi (hàm lượng vàng giảm 1%), đĩnh vàng bị bớt giá 15 quan tiền.
TẢN THẤT VÀ MẤT HÚT
Sau Hòa ước Giáp Tuất 1874, trước sự uy hiếp liên tục và ngày càng gia tăng của thực dân Pháp, vua Tự Đức đã chuẩn y cho xây dựng một loạt các căn cứ Sơn phòng ở hầu khắp các tỉnh miền Trung. Mục đích ban đầu là để phòng ngừa sự quấy nhiễu của “người Man” (người dân tộc thiểu số) từ Tây Nguyên tràn xuống. Nói cách khác, Sơn phòng không gì khác hơn là một loại thành lũy quy mô nhỏ, có quân đồn trú, làm nhiệm vụ như biên phòng ngày nay ở khu vực sơn cước phía Tây đất nước. Nhưng mục đích sâu xa, nhà Nguyễn muốn chuẩn bị trước một loạt căn cứ hậu lộ nhằm có nơi rút lui và tổ chức kháng chiến lâu dài, nếu kinh thành Huế bị Pháp tấn công không thể giữ được.
Sách “Đại Nam thực lục chính biên” cho biết, theo chỉ dụ của Tự Đức, vùng Cùa, Cam Lộ, Quảng Trị được chọn làm đất lập Nha Kinh lý Sơn phòng Quảng Trị. Nhân lực xây dựng lấy từ số phạm nhân đã được phân loại.
Ngày 19-7-1883, Vua Tự Đức băng hà. Di sản mà ông để lại là là một quốc gia ly loạn và một vương triều đổ nát. Một tháng sau, Pháp đã đưa tàu chiến chiếm cứ cửa biển Thuận An, từ đó kéo quân xộc thẳng về kinh đô và đồn trú ngay trên đất Huế. Tướng lĩnh Pháp ngang nhiên ra vào hoàng thành, ngang nhiên nhúng tay can thiệp vào việc triều chính của đất nước. Quốc gia bên bờ suy vong, triều đình Huế phân hóa nghiêm trọng.
Trong ba “cố mệnh đại thần” được di chiếu của Tự Đức giao trọng trách Phụ chánh đại thần thì Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường là chủ soái của phe chủ chiến, trong khi Trần Tiễn Thành cầm đầu phái chủ hòa. Tôn Thất Thuyết và phe chủ chiến đã thẳng tay loại trừ bất kỳ ai, kể cả vua, nếu dám chống lại hoặc cản trở chủ trương chống Pháp. Trong vòng một năm, 3 tân vương Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc đã lần lượt bị truất ngôi và bị giết chết theo lệnh của Tường, Thuyết.
Việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến càng trở nên gấp rút. “Quốc triều chính biên toát yếu” chép, cuối năm 1883, dưới triều vua Kiến Phúc, Cơ mật Viện nhà Nguyễn đã cho “dời Nha Sơn phòng Quảng Trị tới làng Bảng Sơn (nay là xã Cam Nghĩa - NV), lỵ sở phủ Cam Lộ cũng dời về trong Sơn phòng”. Tổng chỉ huy xây dựng Sơn phòng Tân Sở được chính cố mệnh đại thần Nguyễn Văn Tường đảm trách, có sự phụ tá đôn đốc của một loạt trọng thần như Phò mã Đặng Huy Cát, Tham biện Tôn Thất Lệ, Phó sứ Sơn Phòng Nguyễn Tuy... Từ kinh đô, rất nhiều vàng bạc, khí giới cũng được đốc thúc đưa ra chôn giấu tại đây. Riêng vũ khí, số lượng chuyển đi rất lớn, mất ròng rã 3 tháng mới hoàn tất. Sách "Đại Nam thực lục" xác nhận: “Di chuyển Nha đóng ở Sơn Phòng, Quảng Trị có thể làm hậu lộ cho kinh đô (bấy giờ là tháng 12 năm Quý Mùi 1883 -NV). Chuẩn cho quan Sơn Phòng này xem xét lại tường tận, tăng thêm kinh lý...”.
Cả hai cuốn “Đại Nam thực lục chính biên” và “Quốc triều chính biên toát yếu” đều có những ghi nhận thống nhất: đầu năm 1885, về cơ bản, các công trình phòng ngự quân sự đã xem như hoàn tất. Thành Tân Sở dài 548m, rộng 418m, tổng diện tích khoảng 23 hécta bao quanh bởi một vòng hào khá sâu, rộng 10m. Triều đình cho dựng thành, trồng tre, đào hào làm chiến lũy, đồng thời cho chở lương thực từ các tỉnh Hà – Nam – Ninh của đồng bằng Bắc Bộ theo đường biển vào Cửa Việt rồi đưa lên Tân Sở. Từ kinh đô, rất nhiều vàng bạc, khí giới cũng được đốc thúc đưa ra chôn giấu tại đây. Riêng vũ khí, số lượng chuyển đi rất lớn, mất ròng rã 3 tháng mới hoàn tất, trong đó có cả các khẩu đại pháo. Theo dự định của Tôn Thất Thuyết, 1 triệu lượng (khoảng 33 tấn) vàng ròng, bạc nén sẽ được chuyển từ kho Phủ Nội vụ trong kinh thành Huế lên Tân Sở. Nhưng mới chuyển được 1/3, khoảng 11 tấn thì giao tranh với Pháp đã nổ ra tại kinh thành nên phải tạm ngừng.
Ngày 2 tháng 7 năm 1885, tướng Pháp De Courcy đến Huế, dẫn theo 1 tiểu đoàn lính Phi châu, 1 đơn vị đặc nhiệm sơn cước tổng cộng có 19 sĩ quan và 1024 binh sĩ. Viên tướng thực dân ngạo mạn đòi vua Hàm Nghi phải bước xuống ngai vàng đích thân ra đón, trong khi tất cả binh lính Pháp thì có thể tiến thẳng vào Hoàng thành qua cửa Ngọ Môn, vốn là cửa chỉ có hoàng Đế Đại Nam mới được quyền bước chân qua. De Courcy khước từ quà tặng của vua Hàm Nghi nhưng lại buông tối hậu thư ngang ngược: "nếu các người muốn yên ổn, thì trong 3 ngày phải nộp 200.000 thỏi vàng, 200.000 thỏi bạc và 200.000 francs".
Bị lăng nhục, phe chủ chiến tức giận, quyết định ra tay trước. Đêm mùng 5, rạng sáng ngày 6-7-1885 (23 tháng 5 Âm lịch), Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đem quân tấn công trại lính Pháp ở đồn Mang Cá. Chỉ sau một ngày giao tranh, Kinh đô thất thủ.
Rạng sáng 9-7, Tôn Thất Thuyết đã hộ giá (thực chất là bắt ép) vua Hàm Nghi - mới lên ngôi chưa đầy 1 năm - rời Hoàng thành vượt lên Tân Sở. Pháp một mặt cho quân bộ đuổi theo, một mặt cho thủy quân kéo tàu ra biển Nhật Lệ (Quảng Bình) chặn đường.
Tôn Thất Thuyết tự lượng thành Tân Sở quy mô vẫn còn quá nhỏ, địa thế chưa đủ hiểm trở, xa xôi để cầm cự lâu dài, không đủ sức chống đỡ nên chỉ để nhà vua và đoàn hộ giá ở lại thành có 4 ngày.
Ngày 13-7-1885, nhà vua trẻ đã tự tay đóng ấn “Ngự tiền chi bảo” lên những tờ Hịch Cần Vương, kêu gọi sĩ phu và dân chúng mọi miền đứng lên chống Pháp. Ngay sau đó, Tôn Thất Thuyết đã vội phò giá Hàm Nghi vượt lên phía thượng ngàn Đắkrông - Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, từ đó vượt sang Châu mường Mahasay của Lào. Khi Phan Đình Phùng hưởng chiếu Cần Vương khởi nghĩa, lập xong căn cứ Vụ Quang, vua Hàm Nghi lại vượt biên giới về đóng tại căn cứ núi Ấu (Hương Khê, Hà Tĩnh). Thực dân Pháp đã xua đám tay sai do Tổng đốc Hoàng Cao Khải (đồng hương làng Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh với Phan Đình Phùng) chỉ huy đuổi riết. Đoàn tùy tùng lại tiếp tục hộ giá hoàng đế vượt đèo Quy Hợp vào đất Tuyên Hóa, Quảng Bình. Có thời gian, đoàn ngự giá hạ trại tại chân núi Mã Cú, nay thuộc địa phận xã Hóa Sơn, Minh Hóa, Quảng Bình.
Nhà vua và đoàn tùy tùng vừa rời đi, Pháp đã tấn công và nhanh chóng chiếm Sơn Phòng Tân Sở, cướp phá và san phẳng nơi này. Với thời gian gấp gáp, lại liên tục trong tình trạng bị truy đuổi ráo riết một thời gian dài, gần như chắc chắn vua Hàm Nghi và đoàn hộ giá không thể mang theo hết số bạc vàng châu báu, tiền bạc đã tập kết về Tân Sở từ đầu năm 1885. Ngoài phần bị quân Pháp cướp lại, số mang theo được chắc chắn sẽ phải chia nhỏ, chôn dấu lại từng phần ở nhiều nơi dọc đường bôn tẩu.
Trong liên tục 10 năm, từ 1999-2009, tôi đã bỏ ra hàng chục chuyến đi dài ngày, ruổi theo gần như toàn bộ những nẻo đường vua Hàm Nghi và đoàn hộ giá đã từng đi qua khắp vùng thượng đạo ba tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, sang cả Mường Mahasay (phía Đông tỉnh Khăm Muộn, Lào). Lẽ tất nhiên, tôi chẳng tìm được mẩu bạc vàng châu báu nào của ông hoàng trẻ tuổi xưa để lại. Thay vào đó, tôi đã ghi nhận được hàng loạt dấu tích “kho báu vua Hàm Nghi” đã từng phát lộ nhiều lần trong lịch sử. Câu chuyện này, tôi sẽ kể trong một bài viết khác
Sau hơn ba năm bôn tẩu vùng thượng đạo rừng xanh núi thẳm, vua Hàm Nghi sa cơ. Ngày 26-9 -1888, tại khe Tá Bào, Tuyên Hóa, Quảng Bình, tên túc hạ manh tâm Trương Quang Ngọc đã dẫn binh giết sạch đoàn hộ giá, bắt Vua Hàm Nghi dâng cho giặc. Trương Quang Ngọc rồi thực dân Pháp đã lục xét đào xới khắp bốn chung quanh nơi vua hạ trại hòng tìm cướp báu vật mang theo nhưng chỉ uổng công. Không ngọc tỉ, kim ấn, không bạc nén, vàng thoi, trong người đức vua chỉ còn lại một ít bạc lẻ in dấu “Hàm Nghi thông bảo” và vài ba tấm bản đồ đánh dấu một số kho báu được chôn lại ở nhiểu nơi. Kẻ ngoài cuộc có cầm bản đồ trên tay cũng không tài nào xác định nổi vị trí của những tấm bản đồ vẽ sơ sài ấy...Trong khi đó, ông vua trẻ bại vong thì trước sau không chịu nói thêm lấy nửa câu, cho đến tận ngày tạ thế tại đất nước Algeria ở châu phi xa xôi vào năm 1944.
Khoảng 2/3 ngân khố quốc gia, cùng vô số báu vật vương triều, rất nhiều kim ấn, ngọc tỷ, kim sách, kim chi ngọc diệp, đồ tạo tác quý giá…còn lại ở Kinh thành Huế đã bị De Courcy cho lính cướp phá ròng rã trong gần 2 tháng, gửi tàu thủy đem về Pháp. Theo ghi nhận của linh mục cùng thời Pène Siefert thì quân lính của De Courcy đã cướp khỏi hoàng cung một kho tàng trị giá tới 24 triệu frăng theo mệnh giá thời đó!
Những gì còn sót lại, cuối Thế chiến thứ II lại bị Nhật – Pháp thi nhau vơ vét nốt. Chỉ một phần rất nhỏ những báu vật quốc gia được Bảo Đại giao lại cho phái đoàn đại diện Chính phủ Lâm thời trong lễ thoái vị vào chiều 30-8-1945. Trong số đó có tất cả 85 kim ấn ngọc tỷ, hiện vẫn đang được lưu giữ và bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại Hà Nội
Những “quốc gia chi bảo” một thời của việt Nam, giờ đây đang nằm rải rác ở một số bảo tàng của nước Pháp và châu Âu. Tại Bảo tàng Viện Versaille của nước Pháp, những khối vàng nặng 30, 50 và 100 lượng có khắc chữ “Tự Đức thông bảo” đắp nổi hình lưỡng long triều nhật vẫn đang được đặt trên gấm điều thêu kim tuyến cho du khách chiêm ngưỡng như một loại báu vật hấp dẫn. Thanh bảo kiếm của Gia Long Hoàng Đế thì từ bao nhiêu năm nay vẫn đang được xem như một tâm điểm trưng bày tại bảo tàng Quân đội ở Paris…
Bốn nghìn năm đất nước mình vẫn thế
Những cuộc chia ly không đoàn tụ bao giờ
Thắt lòng kể bạn nghe mà trang viết ngậm ngùi!..
NGUYỄN HỒNG LAM
P/S: Bài viết là một phần trong cuốn sách “CÁCH TRỜI BA THƯỚC BA”, xuất bản đầu năm 2017. Nếu hứng thú, mời bạn đón đọc.
Ảnh:
-Thanh kiếm của vua Gia Long trong Bảo tàng Quân đội Paris